Chống hạn – Đoàn Văn Cừ
Đất nẻ, hồ ao đáy cạn trơ
Cây vườn sém lửa nắng ban trưa
Tiếng bơm khuya vẫn vang đồng bãi
Dội nước làm mưa cứu lúa khô
Đất nẻ, hồ ao đáy cạn trơ
Cây vườn sém lửa nắng ban trưa
Tiếng bơm khuya vẫn vang đồng bãi
Dội nước làm mưa cứu lúa khô
Gạo đỏ hàng ngày lấy thổi cơm
Cá ao có giỗ mới sùa cơm
Trong chuồng đôi lợn nuôi làm lệ
Gà đẻ nằm trên ngọn đống rơm
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng,
Tiếng chuông tối nhạt khoang trong yên lặng.
Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa.
Của đám dân nô nức dưới trăng tà...
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
Bên hàng tranh, pháo người chen chúc
Cạnh chiếu "cò, cua..." khách đứng ngồi
Chợ vãn đường về cô yếm đỏ
Tay bồng quả bưởi chín vàng tươi
Hiu hiu trời tắt nắng chiều
Chõ xôi trong bếp phì phèo lên hơi
Bàn thờ hương cháy toả mùi
Từng tràng pháo chuột nổ dài trong khuya
Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng,
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng.
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn,
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông.
Tết đến tôi càng khổ,
Tôi nhớ bức tranh gà,
Chiếc phong bao giấy đỏ,
Bánh pháo tép ba xu.