贈裴公
看書山鳥棲窗扦,
批札春花照硯池。
捷報頻來勞驛馬,
思公即景贈新詩。
Tặng Bùi công
Khán thư sơn điểu thê song hãn,
Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì.
Tiệp báo tần lai lao dịch mã,
Tư công tức cảnh tặng tân thi.
Dịch nghĩa
Khi xem sách, chim rừng đậu ở song cửa sổ,
Lúc phê công văn, đoá hoa xuân soi bóng trong nghiên mực.
Luôn luôn phải về báo tin thắng trận, con ngựa trạm cũng vất vả,
Nhớ cụ, vừa tức cảnh thành bài thơ gửi tặng cụ.
1948
Cụ Bùi Bằng Đoàn (17/9/1889-13/4/1955) quê làng Liên Bạt, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân, tốt nghiệp trường Hậu bổ, làm tri huyện, tuần phủ rồi thượng thư Bộ Tư pháp triều đình Bảo Đại. Sau cách mạng Tháng tám là nhân sĩ yêu nước tham gia kháng chiến chống Pháp, được bầu làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội khoá I.
Bài thơ hoạ lại của cụ Bùi Bằng Đoàn:
Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc,
Giang sơn vạn lý thủ thành trì.
Tri công quốc sự vô dư hạ,
Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi.
鐵石一心扶種族,
江山萬里守城池。
知公國事無餘暇,
操筆仍成退虜詩。
(Sắt đá một lòng vì chủng tộc
Non sông muôn dặm giữ cơ đồ
Biết Người việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù)