Một thời sau Phật Niết-bàn,
Bốn phương rực ánh huy hoàng trí bi.
Khói hương tự viện xanh rì,
Nơi nào nơi chẳng triển thi đạo vàng.
Khiến cho các nước lân bang,
5050. Bỏ theo tà đạo quay sang lẽ thường.
Theo nhau thiết dựng đạo trường,
Như sen thắm nở ngát hương Ta-bà.
Khắp nước gác chuyện can qua,
Tín tâm trai giới nhà nhà an vui.
Đạo như mưa tỉnh lòng người,
Như trăm hoa nở dưới trời chiêu dương.
Đất kia có đồi lan hương,
Mùi thơm quyện áng sương vương sớm chiều.
Bên khe suối bạc tịch liêu,
Nhã-lan của vị Tỳ-khiêu trụ trì.
Ngày ngày cùng một Sa-di,
Trồng khoai cấy sắn sá gì nắng mưa.
Như đồi lan nở bốn mùa,
Xuân thu ngó nắm hoa đưa suối nào.
Vàng son mặc cuộc chiêm bao,
Bưng tai chuyện thế rì rào gió thu.
Bao năm ngồi lắng tâm tu,
Soi trăng viết sách đền bù Đàn-na.
Hoặc khi niệm Phật dưới hoa,
Hoặc chiều quán tưởng mây sa cuối ngày.
Hoặc khi cuốc núi trồng cây,
Đói no một chén vơi đầy cũng xong.
Thênh thang ngoài cửa bụi hồng,
Đầy lòng thiền vị vơi lòng ngô khoai.
Thôn bên có một nhà người,
Ruộng cò thẳng cánh, lưng trời lầu cao.
Vườn thu vừa chớm nụ đào;
Tên nàng Ánh Ngọc, ra vào cợt hoa.
Hoặc khi chuốt tiếng tỳ bà,
Sau mành thả tóc la đà trầm bay.
Hoặc khi tựa cội liễu gầy,
Hồ in bóng khiến vơi đầy sóng xanh.
Trong vùng đã rộn yến oanh,
Lầu còn toả kín một cành quỳnh thu.
Nhân ngày vào Hạ tháng Tư,
Chị em sắm sửa lên chùa dâng hoa.
Đu đưa võng tía quạt ngà,
Lưng non ẩn hiện mái nhà khói hương.
Cheo leo vượt mấy ngã đường,
Gió thoang thoảng ngát suối vương vương lòng.
Qua cầu tay vén rèm hồng,
Nhìn ra gặp tiểu nhác trông khác người.
Mặt như nửa trái đào tươi,
Mắt thăm thẳm phượng, môi ngời ngời son.
Đơn sơ dưới bộ nâu sòng,
Dường như chú lội xuống dòng tìm chi.
Vừa trông, ửng má xuân thì
Như cây rạo rực tới kỳ đơm hoa.
Cầu tre nàng đã đi qua,
5100. Chừng còn tiếng suối la đà lòng xuân.
Ngờ đâu lưng núi mây vần,
Mái tranh ẩn giấu văn nhân tuyệt vời.
Đã nghe chú mấy tháng trời,
Tâm Mai đây, hẳn tên người học Tăng.
Chị em vào tiến hương đăng,
Nhà đôi mái cỏ, hoa giăng ngoài rào.
Trước sau bờ trúc thềm đào,
Hồng chuông vẳng giữa non cao lặng thầm.
Lò đồng toả khói đưa hương,
Trên đài sen tượng Pháp vương hiền từ.
Ánh Ngọc nghe tiếng nam-mô,
Nhác trông còn tưởng giấc hồ liêu trai.
Đón vào nghỉ giữa nhà trai,
Người đâu mũi trúc, mày ngài nghiêm trang.
Thết trà ướp cúc hoa vàng,
Tiểu Mai nâng chén đưa sang mời chào.
Bàng hoàng Ánh Ngọc nghiêng chao,
Tách trà thơm đổ hoen vào áo tơ.
Tâm Mai thay chén trà đưa,
Khiến ai đôi má ửng vừa trái hương.
Chị em bày lễ cúng dường,
Hỏi ra hoà thượng du phương chưa về.
Giúp nhau sửa lại dung huê,
Rồi lên chính điện chỉnh tề lễ dâng.
Nhìn tay ai nhịp hồi chuông,
Khiến nàng quỳ dưới lòng thầm nao nao.
Suối xa vẳng tiếng thì thào,
Lễ xong, ngỏ ý xin vào vườn mai.
Bước son tha thướt trang đài,
Dưới hoa, khép nép một vài nữ lưu.
Tiểu Mai dẫn trước đăm chiêu,
Bước qua rừng liễu muôn chiều nghiêm trang.
Đàng sau thỏ thẻ oanh vàng,
Tiếng cười tiếng nói dưới hàng đào khai.
Ánh Ngọc xin nhánh hoa cài,
Lại nhờ chú tiểu Tâm Mai bẻ giùm.
Người thì ưng ửng hoa dung,
Người thì muôn vẻ ngượng ngùng trao hoa.
Đã trông chênh chếch bóng tà,
Nàng còn bịn rịn, cáng hoa giục về.
Qua dòng suối nhỏ pha lê,
Soi nghiêng liễu ủ hoa ê mấy bờ.
Cửa tùng đôi cánh trơ trơ,
Người ơi biết đến bao giờ gặp nhau.
Một đoàn kẻ trước người sau,
Hoàng hôn vội giục bước mau đường vàng.
Thôn xa ùn ngọn khói lam,
Bâng khuâng cánh nhạn sang Nam xạc xào.
Nhạn vui rừng lý khe đào,
5150. Mặc hoa vườn kín lầu cao một mình.
Nàng về ngưỡng cửa gia đình,
Mà lòng trăm mối tơ tình vấn vương.
Thế rồi, tóc biếng ươm hương,
Song khuya tựa cửa đêm trường nép hoa.
Chiều chiều thơ thẩn vào ra,
Tình vương cửa Phật mới là trớ trêu.
Ngày qua ngày lại tiêu điều,
Mẹ cha lo lắng đã nhiều hỏi han.
Cho dù săn sóc thuốc thang,
Ủ ê hồn quế mơ màng vóc mai.
Khi mê sảng, lúc nói cười,
Tưởng rằng quỷ bệnh, cho mời thiền sư.
Thầy trò xuống núi vân du,
Về thôn tụng niệm đền bù tín gia.
Vừa nghe nàng tỉnh mặt hoa,
Đòi đi lễ Phật, cả nhà mừng vui.
Vừa thấy mặt, đã ngậm ngùi,
Cầm lòng chẳng được, sụt sùi lệ vương.
Bấy giờ cha mẹ tỏ tường,
Bể tình ai dễ đo lường nông sâu.
Ông bà to nhỏ phòng sau,
Trăm phương ngàn kế cùng nhau luận bàn.
Ông đòi rẽ phượng lìa loan,
Bà xin lo lắng vẹn đường cho xong.
Vả chăng tánh trẻ đương nồng,
Phu thê là nợ đèo bồng trái oan.
Bây giờ rẽ phượng riêng loan,
Biết đâu ngọc nát, vàng tan cũng là.
Tính vào hơn hẳn bàn ra,
Lệnh ông nào đọ cồng bà xưa nay.
Ông trầm ngâm hiến mưu hay,
Mời tiểu ở lại đôi ngày tụng kinh.
Để dò cho rõ ngọn ngành,
Phải duyên thì cũng tác thành có sao.
Rồi ông lựa dịp thưa vào,
Xin Tâm Mai ở thôn đào đôi hôm.
Đưa thầy trở bước chùa hương,
Theo chân suốt mấy dặm trường chưa chia.
Sư dặn: “thôi để thầy về,
Nghiêm trì lịnh giới chốn quê là nhà.
Vả chăng yếu lý Phật-đà
Như sen nở giữa ái hà bùn hôi.
Dù trong sinh tử ba đời,
Trí bi thì cũng là nơi Niết-bàn.
Giờ thầy về chốn non lan,
Cửa thiền ai để lửa tàn nến trơ.”
Bóng thầy sương toả đường mờ,
Tiểu Mai còn đứng thẩn thờ ngó theo.
Non xa vương áng mây chiều,
5200. Ven đường lau lách tiêu điều ùn sương.
Gia nhân đến giục lên đường,
Kịp về kinh sách lửa hương đến giờ.
Đường quê trở bước thẩn thờ,
Nhớ non nhớ suối phút giờ chẳng nguôi.
Giữa nơi lạ cảnh lạ người,
Lao xao là thói chợ đời ganh đua.
Quanh chàng kẻ dạ người thưa,
Tưởng lầm ai chẳng mến ưa chốn này.
Thôi thì nệm phủ màn vây,
Đứng ngồi chàng vẫn chưa khuây khoả lòng.
Vẳng đưa sau bức rèm hồng,
Phóng trên ai chuốt tơ đồng nao nao.
Lúc dường sóng thấp sóng cao,
Lúc dường suối lạnh thì thào đâu đây.
Khói trầm thoảng với cung dây,
Mùi hương giục nhớ thương thầy ngẩn ngơ.
Cửa ngoài có tiếng người thưa:
“Mời chú lên gặp ông chờ phòng riêng.”
Con hầu khép nép đưa lên,
Tiểu Mai đã thấy thềm trên hai người.
Đón vào dung mạo tươi cười,
Khách phòng trang trí vàng ngời gấm nhung.
Bà rằng: “thấy chú mà thương,
Chẳng hay lệnh mẫu nghiêm đường giờ đâu?
Tuổi xuân như ngọc như châu,
Sớm tìm chi đạo cao sâu Phật-đà.
Chẳng bằng giúp nước giúp nhà,
Am tranh vùi uổng tài hoa của trời.”
Tiểu thưa: “oan khổ đời đời,
Cũng vì tham luyến khôn rời sắc thân.
Tốt tươi cũng nắm phù trần,
Đất, nước, gió, lửa xoay vần có, không.
Chi bằng ngoài cửa trần hồng,
Muối dưa ngày tháng vơi lòng tiêu dao.”
Ông rằng: “đâu chẳng chiêm bao,
Rồi ai chẳng một hố đào nông sâu.
Xem ra quyền quý sang giàu,
Còn hơn ngô sắn muối rau hợm mình.”
Tâm Mai ngồi đó làm thinh,
Nghe lời, lòng những bất bình sâu cay.
Giờ lâu đứng dậy kiếu ngay,
Về phòng cửa đóng then cài nghiêm trang.
Ngoài song lại lảnh tiếng vàng,
Trông ra đã thấy một nàng hầu trao:
“Cô tôi trộm ước thầm ao,
Mượn tôi gửi chiếc quỳnh dao trâm này.
Trăm nghìn xin cậy nhờ tay.”
Đưa gói lụa ả kiếu ngay lên lầu.
Hồn chàng vơ vẩn đâu đâu,
5250. Mở trong vuông lụa là màu giấy xanh.
Kèm theo một chiếc trâm quỳnh,
Vừa xem thư ngỏ ý tình lẳng lơ:
“Rằng từ dạo bước vườn mơ,
Phòng thêu ai để hững hờ gió thu.
Hẳn thầy hiểu lẽ đừng tu,
Chữ sinh là trọng, chữ từ là hơn.
Vì ai liễu rũ hoa hờn,
Tử sinh tơ tóc đòi cơn vì người.
Hai ta hẳn nặng thề bồi,
Giờ xin sống thác một đời vẹn trao.
Thân em như dải lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Bây giờ mình gặp nhau đây,
Phận hồng xin cậy lòng thầy từ bi.
Bằng không đành gửi xuân thì,
Lòng này đã chết tiếc chi nữa là.
Nghìn tờ khó giải sầu hoa,
Nến khêu phòng vắng, giọt sa lệ dài.
Xin ai hiểu thấu lòng ai,
Tiện đây gửi chiếc trâm cài làm tin.”
Xem xong khép lá thư tình,
Nỗi người vương vấn, nỗi mình hoang mang.
Nghĩ thân muôn trái nghìn oan,
Xuống sông ta rũ bụi vàng cho xong.
Luỵ nhau giả tướng trần hồng,
Quẩn quanh theo mãi một vòng vào ra.
Bước chân quyết vượt ái hà,
Lời thầy thường nhủ biết là sao nguôi.
Vì sao dòng lệ đầy vơi,
Uổng thân trai giới, quên lời nguyện riêng.
Thì trần duyên trả nhân duyên,
Đành đem cái chết chuyển vần nghiệp ai.
Hồn ta nguyện với hồn mai,
Thu, Đông trắng điểm một vài tuyết hoa.
Đôi dòng gửi lại trần sa,
Vòng oan mượn tấm rèm là làm phương.
Năm sau trên đồi lan hương,
Hoa rơi rơi với hồi chuông mơ hồ.
Khi chiều nắng nhạt lưa thưa,
Có người gặp tiểu ni cô hiền hoà.
Nghiêng nghiêng quét gốc mai già,
Rồi đem hoa rụng đổ ra suối dài.
Nước thành một dải tơ mai,
Thầm trông như tưởng bóng ai giữa dòng.