Bức thứ tám:
(Kiều đi thăm am xưa – nơi Giác Duyên đã dựng lên
để nàng tu – am đã bị đốt, có người khắc trên tường
bức tranh hạc, y như giấc mộng hiên thu của nàng)
Kiều ngồi thêu đoá phù dung
Gió lay những tưởng trùng trùng sóng xanh
Con chim cẩm vũ trên cành
Gọi chi thêm lạnh mấy nhành mưa bay
Ngoài đồng hiu hắt bông may
Tàng mây ẩm đục vào ngày trôi mau (650)
Đường xa ngơ ngác cờ lau
Am xưa liệu có phai màu khói sương
Nhớ ngày tẩy nước cành dương
Cửa Không yên gởi phận sương dần dà
Sáng trông mái cỏ đầy hoa
Như bông tuyết rụng cánh sa hàng hàng
Ngừng tay nàng nhớ mang mang
Cành Thu ngó lá Thu vàng vèo rơi
Tàng lan như cất tay vời
Thầy đi quẩy đẫy mây trời về chưa (660)
Hay là tan tác gió mưa
Nền rêu cây trút lệ thưa hoa tường
Kiều truyền sửa kiệu lên đường
Hầu theo đôi trẻ, quả hương tráp đào
Sóng ùn khói trắng non cao
Bãi xa cỏ úa dâng trào nước sông
Tưởng chiều mắt lệ ngùi trông
Tưởng người cứu độ cánh hồng là may
Lênh đênh vẫn mặt sông này
Bè giăng lưới đón, thuyền vầy hoa đưa (670)
Thành đàn mười nhánh tay mưa
Ngày nay hoa trổ, ngày xưa lệ ngần
Núi rừng đâu rõ Thu Xuân
Cánh chim nào nhớ dấu chân cát buồn
Trách lòng tự đúc nên khuôn
Trách người chia những vai tuồng thấp cao
Vui buồn trong giấc chiêm bao
Rồi đem vọng tưởng khép vào tâm can
Nhớ Thầy Văn giảng Kim Cang
“Khổ đau mới biết con đàng khói mây (680)
Ngại gì người đó ta đây
Mùa Xuân cây cỏ sum vầy trăm hoa
Lênh đênh ngọn nước phù sa
Vượt lên, thể nhập đại hoà biển dâu
Lấy từ đâu, để về đâu
Chợ mây tan hợp bên cầu mấy phiên
Sao con lắm nỗi buồn phiền
Chẳng như suơng sớm trên triền non bay
Mặc ai tâm vọng nọ này
Ván cờ cao thấp chua cay gượng cuời” (690)
***
Còn đang hướng mắt xa vời
Núi xưa kiệu đã đến nơi hẹn lòng
Tiếng chim thoảng lọt rèm hồng
Sợi mưa bay ướp bềnh bồng hương lan
Trông ra tủi hận vô vàn
Am mây còn đống tro tàn nền trơ
Rừng chiều lau lách bơ vơ
Cây phơi cành lệ suơng mờ bao la
Lòng Kiều lắm nỗi xót xa
Trách mình quên mái hương xa bấy ngày (700)
Thầy đi biền biệt ngàn mây
Hỏi ai – hoa ngọn gió lay mấy nhành
Mưa xoi rêu nhạt thềm xanh
Cổng cao mối đắp, tường quanh chuột đùn
Rì rào, dế gọi, trùng dun
Vườn ngoài cỏ dại mấy lùm vươn cao
Sân rêu vương dấu hài nào
Không lâu hẳn có người vào đốt am
Nàng truyền mấy đứa a hoàn
Bệ xưa quét dọn, khói nhang lửa đèn (710)
Kiều đang thơ thẩn quanh thềm
Bỗng dưng thấy bức tường bên tạc hình
Khắc con tiên hạc uốn mình
Phiêu diêu hương nguyệt, lung linh vân đằng
Rêu mờ, bụi phủ, nhện giăng
Hạt mưa lấp lánh như hàng lệ rơi
Chừng nghe tấc dạ bồi hồi
Khác chi mộng thoảng đêm ngồi hiên Thu
Cầu treo sương khói âm u
Bước chân hạc nổi tít mù trăng sao (720)
Bây giờ trước bức tường nao
Vết hài nét hoạ thanh tao – cùng người
Cứ xem nét ẩn nét tươi
Chẳng từ đại chí, cũng nơi đạo trường
Vết hài còn đậm dấu suơng
Bức tranh rõ nét trên tường mới đây
Hay là Tam Hợp sư Thầy
Du phương để bức hoạ này nhủ ta
Ý ngài thức tỉnh trần sa
Quẩn quanh vọng tưởng vào ra ngại ngần (730)
Sân ngoài mưa đọng dấu chân
Tường trơ hạc cuốn phù vân rã rời
Giác Duyên thầy khuất phương trời
Mây ùn cửa núi, hoa rơi động ngoài
Non xưa am vẳng u hoài
Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông
Biết đâu đã xả bụi hồng
Hoá thân triền núi bãi sông nào chừng
Sợi mưa ngơ ngác rưng rưng
Hoa nghiêng lắng gió cây rừng vọng chim (740)
Trên sông đôi giải mây chìm
Nắng hoe tà áo tóc in dòng huyền
***
Kiệu phu chờ thỉnh ý trên
Thơ đề thoắt uốn tay tiên bốn dòng
Vai nghiêng vắt cạn lệ lòng
Tơ Thu cuộn thẫm một vòng tà dương
Nẻo về lối tím khe sương
Hoa chân núi, lệ ven đường cùng rơi
Thì thào khói sóng ùn hơi
Nhạn sa dấu cát, mây dời sắc non (750)
Đường dài thêm nỗi héo hon
Cội lan đỉnh biếc hương còn vuơng theo