Mùa trở dạ, vườn tơ chờ trái đỏ.
Nắng lên đồi đỉnh tháp đứng chăn đê.
Đường dây thép chim về khao lúa trổ.
Dọc đường dài bụi đỏ phất mui xe.
Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám.
Trăng mái đường về hội nghị cơ quan.
Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám.
Bao đứa con xiêu lạc trở làng.
Chiều đại hội ráng lồng trên biếu ngữ.
Đời căng buồm vè xứ sở tự do.
Đường cách mạng thơm từng trang lịch sử.
Trong nhớ thương sông núi bớt mơ hồ.
Chim trắng lượn giàn, lá đang lát ngõ.
Mái hoa râm phường phố chục làm duyên.
Những hàng xén vừa nhún nha đến chợ.
Tin dữ bay về gương lược đổ nghiêng.
Cù lao Yến én bồng con chạy tổ.
Họng ca-nông ừng ực bãi Qui Nhơn.
Đường “Mười chín” cầu A dưng gãy đổ.
Móm giày đinh đến sục sạo chợ Đồn.
Người băng nẻo tuông qua lòng Bình Định.
Rứt quê hương như rứt tóc, rứt da.
Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh.
Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga.
Người treo chiếu trên cành đa rễ phụ.
Người dìu cha nơi dịch xá lộ thiên,
Người vắt sữa lau mắt con gái ngủ.
Người đứng ngã ba úp mặt xin tiền.
Người khoả cát tính đoạn đường trụ số
Người ngóng chồng trong bát cháo tàn hơi,
Người thờ thẩn nhìn ánh đèn trong phố.
Người lạ lùng trước một quả vông rơi.
Người gối lưới mơ màu xanh nước biển
Người nằm rơm nhớ bụi mía chòi dưa
Người khâu giép tiếc mũi khoan bàn tiện.
Người nhẫm tiếng quà rao ngọt đường trưa.
Người ngồi nhắc nhịp đồng hồ quả lắc.
Người tưởng chuông, làm dấu hiệu Ba Ngôi,
Người nhớ sách, người nhớ hương, nhớ nhạc
Người nhớ người, người nhớ một làn môi.
Và Bình Định nằm thương em nhớ chị,
Ôm phố phường quấn quýt sắc trời xanh.
Một viên sỏi cũng cộm thành ý nghĩ.
Sáng trên đường chờ chận bước hôi tanh.
Gò lóc thịt đắp thêm nền chướng ngại.
Dứt đốt xương cầu lịm xuống dòng sông.
Chim tìm tổ dưới ngôi nhà đổ mái.
Chân ngựa còn quyến luyến cỗ xe long.
Tin hoả tốc bạt thếp đèn cửa quán.
Lửa mài gươm sáng rực xóm Lò-rèn,
Mẹ binh sĩ lòng khâu theo túi đạn.
Phòng tuyển binh người áo vải chân chen
Mõ lốc cốc, chó không còn tiếng sủa.
Quân lên đường chân đất bước như ru.
Quạnh hơi thở trong những nhà đóng cửa.
Cha mẹ phà đường, bà chúa tản cư.
Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thuỷ,
Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.
Gái quạt trấu cũng hoá thànhdũng sĩ,
cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng.
Đời co lại từng vắt cơm, nắm muối,
Hơi thở theo hồi kẻng, bóng đôi bồ.
Lòng Bình Định như go chèn chi rối,
Dệt lòng tin qua từng gút âu lo.
Tôi sống những ngày thân cò lặn lội.
Gánh gạo phá thành, đốt đuốc dời kho.
Cùng xứ sở chong ngọn đèn le lói,
Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù.
Lan can đổ theo vọng lâu ba cửa.
Trăng đầu hôm im tựa trụ cờ cao.
Vườn gòn rộng như gian phòng goá bụa.
Dơi lạc đường về, thành luỹ đi đâu!
Hồn tôi trải: đây lầu chuông xóm Đạo.
Đây cây me Ty Niết, góc sân banh.
Đây từng ụ đất trơ màu hoang đảo.
Đem nhớ thương đỡ dậy những tâm tình.
Bài thơ nhỏ gửi qua tay bạn trẻ,
Tôi viết bên bia gãy nắng ngang đầu.
Từng nét chữ vùng lên hồn sóng bể;
Hải cảng lòng tôi chờ giặc đến chìm tàu.
Chân đi giữa những phố phường trống trải.
Xẻng cuốc người về áo lạnh hơi sương.
Trong bụi bậm những buổi chiều phá hoại.
Tôi ngạc mùi than khói ngất công trường.
Phấn vôi rã đã bay về chín hướng.
Rải căm hờn qua bãi thẳm rừng cao.
Ôi Bình Định khi thành quan ngã xuống,
Mắt con người thêm rộng nẻo tìm sao.
(Trích Kết giao, 1945)